KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ VỀ ĐÌNH CHỈ CHIẾN SỰ Ở VIỆT NAM (21/7/1954 - 21/7/2024); KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH - LIỆT SĨ (27/7/1947-27/7/2024); KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM (28/7/1929 - 28/7/2024).
Kinh tế
Đăng ngày: 26/04/2019 - Lượt xem: 300
Dự báo tăng trưởng GDP năm 2019 của Việt Nam ở mức 6,6%

“Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục thể hiện nền tảng tích cực, với sự hỗ trợ của sức cầu mạnh trong nước và ngành sản xuất chế tạo, chế biến theo định hướng xuất khẩu” - theo báo cáo “Vượt qua trở ngại” cập nhật tình hình kinh tế tại các quốc gia khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố hôm nay (24/4).

Tăng trưởng GDP quý I ước đạt 6,79%

 

Ảnh minh hoạ (Nguồn: 24h.com.vn)

 

Cũng theo báo cáo này, tuy triển vọng trung hạn nhìn chung thuận lợi, nhưng vẫn còn những rủi ro bất lợi, liên quan đến sức cầu bên ngoài giảm đi, biến động tài chính toàn cầu, và tiến độ cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và khu vực ngân hàng. Nhìn theo hướng tích cực, Việt Nam đang ở vị thế vững vàng để hưởng lợi từ nhiều hiệp định thương mại tự do đã và sẽ có hiệu lực trong giai đoạn dự báo.

Một số kết quả tích cực

Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục thể hiện nền tảng tích cực, với sự hỗ trợ của sức cầu mạnh trong nước và ngành sản xuất chế tạo, chế biến theo định hướng xuất khẩu. Sau khi đạt mức tăng trưởng 6,8% năm 2017, số liệu sơ bộ cho thấy tăng trưởng GDP năm 2018 đã lên đến 7,1%, do các hoạt động kinh tế đồng loạt khởi sắc. Tăng trưởng ở các ngành nông, lâm, ngư nghiệp đạt mức 3,5% so với 2,8% năm 2017. Ngành công nghiệp và xây dựng tăng trưởng 8,5%, do các lĩnh vực chế tạo, chế biến tăng trưởng mạnh ở mức 13% nhờ sức cầu bên ngoài cao. Ngành dịch vụ đạt tăng trưởng 7,2% do duy trì được thế mạnh về du lịch và tiêu dùng trong nước.

Hoạt động kinh tế sôi động đã tạo thêm việc làm và hỗ trợ tiếp tục giảm nghèo. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức 2,2% trong năm 2018, ngang mức năm 2017, nhưng tỷ lệ chiếm dụng lao động đã giảm xuống 1,5% trong cùng kỳ so với 1,7% năm 2017. Theo ước tính, tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế áp dụng cho các quốc gia thu nhập trung bình thấp (3,2 USD, ngang giá sức mua năm 2011) giảm từ 8,4% năm 2016 xuống còn 5,9% năm 2018.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng nhanh trong ba quý đầu năm 2018, chủ yếu do tăng giá các mặt hàng do nhà nước quản lý, nhưng chững lại đáng kể trong quý tư năm 2018, do giá nhiên liệu và lương thực thực phẩm giảm dần. Nhìn tổng thể cả năm, CPI chung được duy trì ở mức vừa phải là 3,5%, thấp hơn so với chỉ tiêu lạm phát 4% của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).

Chính sách tiền tệ của Việt Nam tiếp tục phải cân đối giữa hai mục tiêu, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Mặc dù chính sách tiền tệ nhìn chung vẫn theo hướng tạo thuận lợi, nhưng NHNN đã từng bước thắt chặt tín dụng trong năm 2018 bằng cách đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thương mại và kiểm soát cho vay các lĩnh vực rủi ro cao (bất động sản, chứng khoán, và tiêu dùng). Thanh khoản trong khu vực ngân hàng được thắt lại đáng kể, do tốc độ tăng tiền gửi giảm khiến lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn ngắn bị đẩy cao. Do điều kiện huy động vốn chặt chẽ hơn, tăng trưởng tín dụng hạ xuống khoảng 14% trong năm 2018 (so cùng kỳ năm trước) từ mức 18% năm 2017. Mặc dù vậy, bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp và các hộ gia đình có tỷ lệ đòn bẩy ngày càng cao – tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam hiện rơi vào khoảng 135%. Vì vậy, nền kinh tế dễ bị tổn thương với các cú sốc và nguy cơ gặp áp lực trên thị trường tài chính, đặc biệt khi nợ xấu trước đây chưa xử lý hết và tỷ lệ an toàn vốn còn mỏng ở một số ngân hàng.

Mặc dù tình hình thương mại thế giới có nhiều biến động, cán cân kinh tế đối ngoại của Việt Nam vẫn tiếp tục cải thiện. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt nam ước tính tăng 13,2% trong năm 2018 – thấp hơn so với mức 21,8% năm 2017, nhưng cao hơn đáng kể so với tỷ lệ tăng trưởng thương mại toàn cầu. Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa giảm mạnh còn 11,1% so với 21,9% năm 2018, cho thấy kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trung gian và phục vụ đầu tư giảm mạnh. Hoạt động thương mại sôi động đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất trên thế giới, với tỷ lệ thương mại trên GDP trong năm đạt gần 200%.

Xuất khẩu tốt cũng giúp Việt Nam duy trì được thặng dư tài khoản vãng lai trong 8 năm liên tiếp. Thặng dư tài khoản vốn của Việt Nam vẫn ở mức cao do dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn được duy trì. Vị thế kinh tế đối ngoại vững chắc làm giảm áp lực tỷ giá, giúp cho NHNN nâng dự trữ ngoại hối từ mức tương đương 2,1 tháng nhập khẩu vào cuối năm 2015 lên đến khoảng 2,8 tháng vào cuối năm 2018. Nhờ vị thế kinh tế đối ngoại vững vàng, tỷ giá đã và đang tương đối ổn định kể từ giữa năm 2018, nhưng vẫn để lại một số quan ngại về sự mất giá thực của tiền đồng, với khả năng gây tác động tiêu cực đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam.

Tình hình tài khóa của Việt Nam cũng đã cải thiện khi bội chi ngân sách chung ước tính giảm xuống còn 4% GDP trong năm 2018 so với 4,3% năm 2017 và 4,9% năm 2016. Thu ngân sách nhà nước ước đạt 23,6% GDP năm 2018 (tương đương với số liệu báo cáo năm 2016 và 2017) nhờ nguồn thu từ các sắc thuế lớn được khôi phục theo chu kỳ do tăng trưởng mạnh về tiêu dùng và thu nhập. Trong cùng kỳ, chi ngân sách ước giảm còn 27,6% GDP trong năm 2018, thấp hơn so với 28,5% năm 2016 và 27,8% năm 2017, chủ yếu do cắt giảm chi đầu tư và hợp lý hóa các nội dung chi có thể chủ động khác. Các biện pháp trên mặc dù có hiệu quả trong ngắn hạn nhưng lại ảnh hưởng đến đầu tư cần thiết cho hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực. Chính vì vậy, cam kết tăng cường kỷ luật, kỷ cương ngân sách của Chính phủ cần được cân đối với những cải cách nhằm tạo dư địa tài khóa để duy trì những nội dung đầu tư quan trọng về hạ tầng và chi tiêu cho các dịch vụ công thiết yếu.

Thách thức và triển vọng

Mặc dù viễn cảnh trước mắt được cải thiện, nhưng vẫn còn đó những rủi ro theo hướng xấu đi đáng kể. Nhìn từ trong nước, các nỗ lực tái cơ cấu DNNN và khu vực ngân hàng bị trì hoãn có thể gây ảnh hưởng bất lợi đến tình hình tài chính vĩ mô, làm suy giảm triển vọng tăng trưởng và tạo ra các nghĩa vụ cho khu vực công. Đầu tư công tiếp tục suy giảm có thể ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển dài hạn. Các nỗ lực củng cố tình hình tài khóa tiếp theo cần tập trung kiềm chế tăng chi thường xuyên và đồng thời phải ổn định được kết quả thu. Nền kinh tế Việt Nam vẫn dễ bị tổn thương với những biến động tiếp theo của nền kinh tế toàn cầu do độ mở cửa thương mại lớn, dư địa chính sách tiền tệ và tài khóa còn tương đối hạn chế. Sức cầu bên ngoài yếu đi và biến động tài chính tăng lên càng đòi hỏi phải tiếp tục tập trung quản lý kinh tế vĩ mô theo hướng chủ động và thận trọng nhằm đối phó với những cú sốc bất lợi có thể xảy ra trong cả ngắn hạn và trung hạn. Tăng trưởng hiện cũng chưa đồng đều giữa các vùng miền,làm nới rộng khoảng cách về thu nhập và tình trạng nghèo đói.

Triển vọng kinh tế trong ngắn hạn theo tính toán sơ bộ nhìn chung tích cực. Tăng trưởng được dự báo sẽ chững lại còn 6,6% năm 2019, do tín dụng được thắt lại, tiêu dùng tư nhân giảm đà và nhu cầu bên ngoài yếu hơn. Áp lực lạm phát vẫn ở mức vừa phải theo dự báo, trong điều kiện sức cầu trên toàn cầu giảm nhẹ, giá cả năng lượng và lương thực thực phẩm ở mức vừa phải. Nhìn về trung hạn, tăng trưởng dự báo sẽ xoay quanh mốc 6,5% do tác động tăng theo chu kỳ như hiện này sẽ giảm dần. Tỷ lệ nghèo dự kiến sẽ tiếp tục giảm khi các điều kiện trên thị trường lao động vẫn thuận lợi…

 

Các chỉ số triển vọng vĩ mô của Việt Nam và dự báo (thay đổi % theo năm)

 

2016

2017

Ước 2018

Dự báo 2019

Dự báo 2020

Dự báo 2021

Tăng trưởng GDP thực, theo giá thị trường cố định

6,2

6,8

7,1

6,6

6,5

6,5

Tiêu dùng tư nhân

7,3

7,4

7,3

7,2

7,2

7,2

Tiêu dùng của Chính phủ

7,5

4,9

4,7

5,8

6,0

6,0

Đầu tư tài sản cố định gộp

9,9

9,4

8,3

8,4

8,0

8,0

Xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ

13,9

14,9

14,5

14,1

14,0

14,0

Nhập khẩu, hàng hóa và dịch vụ

15,3

15,3

14,3

14,2

14,1

14,1

Tăng trưởng GDP thực, theo giá yếu tố sản xuất cố định

6,2

6,7

7,1

6,6

6,5

6,5

Nông nghiệp

1,4

2,8

3,5

2,5

2,0

2,0

Công nghiệp

7,6

8,0

8,5

8,0

8,0

8,0

Dịch vụ

7,0

7,1

7,2

6,9

6,7

6,7

Lạm phát (Chỉ số giá tiêu dùng)

3,2

3,5

3,5

4,0

4,0

4,0

Cân đối tài khoản vãng lai (% GDP)

2,9

2,8

2,9

2,4

2,2

1,9

Cân đối tài khóa (% GDP)

-4,9

-4,3

-4,0

-3,9

-3,9

-3,9

Nợ (% GDP)

60,0

58,6

57,6

57,2

57,0

56,9

Cân đối cơ bản (% GDP)

-2,8

-2,3

-2,1

-2,0

-1,9

-1,8

Tỷ lệ nghèo chuẩn quốc tế (1,9 USD ngang giá sức mua 2011)

2,0

1,7

1,4

1,2

1,0

0,8

Tỷ lệ nghèo chuẩn thu nhập trung bình ngưỡng thấp (3,2 USD ngang giá sức mua 2011)

8,4

7,1

5,9

5,0

4,3

3,6

Tỷ lệ nghèo chuẩn thu nhập trung bình ngưỡng cao(5,5 USD ngang giá sức mua 2011)

29,0

25,8

22,9

20,4

18,3

16,4

Nguồn số liệu: Ngân hàng Thế giới)

 

Đặng Hiếu

(Nguồn: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam)

Tin liên quan